For faster navigation, this Iframe is preloading the Wikiwand page for Tiếng Dân (báo).

Tiếng Dân (báo)

Tiếng-Dân
La Voix du peuple
Trang nhất của tờ Tiếng Dân, số 1085
Loại hìnhTuần san
Nhà xuất bảnNhà in Tiếng Dân
Tổng biên tậpHuỳnh Thúc Kháng
Thành lậpNgày 12 tháng 2 năm 1927
Khuynh hướng chính trịPháp-Việt Đề huề
Chủ nghĩa quốc gia cải lương
Ngôn ngữTiếng Việt
Đình bảnNgày 28 tháng 4 năm 1943
Quốc gia Liên bang Đông Dương

Báo Tiếng Dân là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), một nho gia thuộc trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn báo đặt tại Huế, phổ biến và có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức miền Trung trong gần 16 năm dài, từ 1927 tới năm 1943.

Thành lập

[sửa | sửa mã nguồn]
Nghị định của Toàn quyền Pháp cho phép Huỳnh Thúc Kháng xuất bản tờ Tiếng Dân.

Trong khi báo chí phát triển ở Bắc và Nam thì tại Trung Kỳ chưa có tờ nhật báo nào được xuất bản. Tình trạng này kéo dài mãi đến năm 1927, khi tờ Tiếng Dân xuất hiện do tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng sáng lập tại xứ Huế dưới chế độ phong kiến lạc hậu. Tháng 7 năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng trúng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ, được bầu làm viện trưởng. Sau cuộc họp đầu tiên khai mạc ngày 7 tháng 9 năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng “cùng đồng nhân trù hoạch xin mở một tờ báo, vì xưa nay ở Trung Kỳ chưa có một tờ báo nào”. Phan Bội Châu[a] đến nhờ Huỳnh Thúc Kháng đứng tên để xin phép ra báo, vì mang tiền án tù chính trị nhưng lại là đương kim Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, yêu cầu xuất bản có thể sẽ được phê duyệt. Cuối năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng đọc diễn văn tại Viện dân biểu, phản ánh tình trạng thiếu một tờ báo trên "dải đất gồm 15 tỉnh".[2] Trước làn sóng dư luận, chính quyền Pháp đành miễn cưỡng cho phép ông Huỳnh Thúc Kháng xuất bản tờ Tiếng Dân.[3]

Vào thời điểm này, tại Trung Kỳ chưa có nhà in nào có thể in được một tờ báo khổ to như Tiếng Dân (58x42cm).[b] Sau khi thỏa thuận với Toàn quyền Pasquier, dù chưa có nghị định chính thức, Huỳnh Thúc Kháng đứng ra gọi vốn thành lập công ty, định đặt trụ sở ở Tourane, một nhượng địa của Pháp tách rời chính quyền phong kiến Nam triều, đồng thời là quê hương của ông. Nhưng chính quyền Pháp không cho phép in báo tại Đà Nẵng, mà phải đặt trụ sở tại Huế để tiện kiểm duyệt mọi ấn phẩm của nhà in. Cùng với việc tìm trụ sở, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh (được cử đi Sài Gòn tìm hiểu công việc làm báo, vì các công sự đều chưa am hiểu công việc tổ chức tòa soạn), Nguyễn Xương Thái ra Hà Nội tìm mua máy in. Tháng 2 năm 1927, công ty gọi vốn được hơn 30.000 đồng, số tiền đủ mua một tòa nhà số 123 đường Đông Ba và trang thiết bị cho nhà in. Ông Mai Du Lân chủ nhiệm tờ Thực nghiệp đồng ý nhượng lại một máy in chưa dùng và đưa thợ in vào Huế trợ lực. Sau khi lắp ráp và chạy thử máy in, ngày 10 tháng 8 năm 1927, Tiếng Dân ra số đầu tiên.[3][5]

Trình bày và hình thức

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ số đầu đến ngày đình bản, manchette của Tiếng Dân hiếm khi thay đổi, dòng đầu trang nhất có ngày âm lịch và dương lịch ra số báo và giá mỗi số; hai chữ TIẾNG DÂN đậm nét, ở dưới là dòng chữ tiếng Pháp La Voix du Peuple (Tiếng dân), bên cạnh là hai chữ Nôm 民 聲 (Dân Thanh). Về ngày ra báo, báo ra đúng hai lần một tuần: thứ Tư và thứ Bảy. Từ ngày 1 tháng 2 năm 1936 đến ngày 30 tháng 12 năm 1939, báo ra mỗi tuần ba số: thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy. Từ đầu năm 1940 trở đi báo trở lại mỗi tuần hai số như trước. Về trình bày, nhà in đăng những danh ngôn thể hiện mục đích và tôn chỉ của báo vào thời điểm đó. Dưới là những bài xã luận, thời sự và bình luận chính trị, đôi khi đăng ở trang 1 tiếp sang trang 3. Trang 2 đăng tiểu thuyết, truyện dịch dài kỳ và quảng cáo. Trang 3 là những bài về tư tưởng, văn hóa, khoa học, phân nửa còn lại là quảng cáo. Trong quá trình làm việc, tòa soạn thiếu người am hiểu nghiệp vụ thiết kế trang báo, trình bày bài vở, dù có rút kinh nghiệm và tham khảo đồng nghiệp để cải tiến nhưng Tiếng Dân vẫn không hấp dẫn về mặt hình thức. Từ cuối tháng 4 năm 1936, báo có mục “Việc các tỉnh” ở Trung Kỳ thay cho mục “Việc trong nước”. Những dịp tết và ngày kỉ niệm ra báo hằng năm đều có số đặc biệt, có khi nâng lên thành 6 trang.[6]

Quan điểm và tư tưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan điểm về văn học và "vụ án Truyện Kiều"

[sửa | sửa mã nguồn]

Với xu hướng hoài cổ, Tiếng Dân thể hiện những quan niệm văn học mang tính bảo thủ, cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức, Huỳnh Thúc Kháng đã rất cố gắng sử dụng chữ Quốc ngữ để diễn đạt trên báo, nhưng ông vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của cấu trúc văn chương biền ngẫu, và chính ông lại ra sức bảo vệ nó, ông viết: "văn dùng điển gần như thông lệ của nhà văn, nên thiếu nó không khác gì nhà nghèo thiếu gạo".[7] Về nội dung, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng văn chương phải có sứ mệnh giáo huấn, vì vậy, ông cương quyết lên án chủ nghĩa lãng mạn, đả kích mạnh mẽ các tác phẩm hư cấu là "vị thuốc độc cùng đạo bùa mê cho tinh thần".[8] Với trào lưu thơ mới, ông tỏ ra bất bình và xem đây là thứ thời thượng u mê.[9] Huỳnh Thúc Kháng đã dành cho thơ cổ điển một vị trí lớn trên báo Tiếng Dân, nhưng ông đặc biệt phê phán Truyện Kiều. Ông đã dùng Tiếng Dân để công kích nhân vật nàng Kiều và Phạm Quỳnh – một người hết lòng ca ngợi Truyện Kiều bằng lời lẽ khắc nghiệt: "Con đĩ Kiều kia, có cái giá trị gì? Người tô vẽ Kiều kia có công đức gì mà hoan nghênh". và "Truyện Kiều là thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại".[10] Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, Huỳnh Thúc Kháng đả kích truyện Kiều vì quan niệm "văn dĩ tải đạo" của nhà Nho, và góc nhìn của ông Kháng với Phạm Quỳnh là "có công đức gì mà hoan nghênh".[11] Thái độ khắc nghiệt của Huỳnh Thúc Kháng với Truyện Kiều là nguyên nhân gián tiếp của việc tờ Tiếng Dân đình bản. Cuối năm 1942, chính quyền thuộc địa yêu cầu các báo Việt Nam ca ngợi nhân vật Kiều để kỷ niệm Nguyễn Du. Huỳnh Thúc Kháng viết một loạt bài, nhưng không phải để ca tụng mà là gièm pha tác phẩm này, tất cả đều bị Sở Kiểm duyệt lược bỏ chỉ còn lại mỗi một bài.[12] Sau đó, ông viết một bài khác trong đó mở đầu bằng cách khen ngợi giá trị văn chương của Truyện Kiều, nhưng phần cuối lại phê phán toàn bộ tác phẩm, đặc biệt lên án khuynh hướng chung (mà ông coi là đáng trách) muốn coi Truyện Kiều là biểu tượng của quốc hồn quốc túy Việt Nam. Phần cuối bị chính quyền kiểm duyệt và chỉ cho phép đăng phần đầu, nhưng ông Kháng lại rút toàn bộ bài. Ngay lúc ấy Toàn quyền Decoux ký quyết định đình bản tờ Tiếng Dân vào tháng 4 năm 1943.[13][14]

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Khác với phần tử cấp tiến của giai đoạn những năm 1920 – 1930, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương một phương pháp tiến hành tuần tự, bất bạo động trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Ông tỏ ra trung thành với quan điểm văn hóa của phong trào Duy Tân và nghĩ rằng bối cảnh chính trị Việt Nam không cho phép thực hiện hành động chính trị.[15] Trong một bài báo viết năm 1928,[16] ông bày tỏ ý kiến không muốn người Pháp rời Việt Nam, không tán thành người Việt đuổi người Pháp về vì không phù hợp với thời đại mới, và không có chủ trương giành độc lập dân tộc.[17] Sau vụ ám sát Bazin ngày 9 tháng 2 năm 1929, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng hoạt động tại Hà Nội bị bắt. Cuộc điều tra kéo dài đến tháng 7 năm 1929 Hội đồng đề hình mới đem ra xét xử, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng nguyên nhân của sự kiện này là do chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, nhất là với tầng lớp thanh niên, sinh ra hành động yêu nước và giành độc lập dân tộc; không phải từ mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc Pháp, từ truyền thống ái quốc và tinh thần độc lập dân tộc trong lịch sử nên dẫn tới cách mạng giải phóng dân tộc.[18][19] Sau sự kiện khởi nghĩa Yên Bái, Tiếng Dân đăng bài phân tích nguyên nhân, gọi Việt Nam Quốc dân Đảng là "đảng phiến động".[20]

Đối với hoạt động cộng sản, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng chủ nghĩa cộng sản không áp dụng được tại Việt Nam.[21] Ngày 2 tháng 3 năm 1929, Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam rải truyền đơn phản đối Trung Quốc Quốc dân Đảng bắt giữ người Việt ở Quảng Châu và Hoàng Phố. Ông Kháng viết bài chỉ trích "nạn truyền đơn" – một phương thức cổ động tuyên truyền của các tổ chức cách mạng theo xu hướng chủ nghĩa cộng sản. Ông cho rằng "chân tướng cùng nội dung tờ truyền đơn" là "do vài ba đứa trẻ con nào đó; thấy đâu nói đó, nói cho sướng mồm, gây chuyện lợi cho mình, vu hãm luơng dân".[22] Sau khi truyền đơn kỉ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga của Đảng Cộng sản được rải nhiều nơi tại Trung Kỳ, Tiếng Dân tiếp tục đăng bài phê phán vụ truyền đơn và chủ nghĩa cộng sản, cho rằng "chủ nghĩa cộng sản không hợp với tình thế tại xứ ta; với tình thế như trên, công cuộc cộng sản thiệt còn chưa hiệp [hợp] với tình thế như trên, [...] huống gì là cộng sản giấy".[23][24] Trong bài báo xuất bản tháng 11 năm 1929, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng chủ nghĩa cộng sản chính là người Nga. Nga tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản sang châu Âu, nơi xung đột giữa lao động và tư bản, đồng thời truyền sang châu Á, là "nơi các xứ dân tộc hèn yếu, dụ khuyên theo chủ nghĩa ấy để khuấy rối các nước đế quốc". Tầng lớp thanh niên tin vào chủ nghĩa cộng sản "đều là hạng nghe theo", không có ai [tại Việt Nam] xứng cái danh "chủ động cộng sản".[25] Sau năm 1930, Huỳnh Thúc Kháng không công kích những chủ trương và hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương mà chỉ giữ thái độ bàng quan. Những người cộng sản viết bài gửi đăng báo Tiếng Dân, ông vẫn nhận và công bố bình thường như mọi tác giả khác.[21]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Trước đó, ông Phan Bội Châu đã có ý định xuất bản báo tại Huế, nhưng ý định của ông bị bác vì mang án tù chính trị và đang trong thời gian bị quản thúc, nên không đủ tiêu chuẩn thành lập báo theo sắc lệnh và nghị định của nhà nước.[1]
  2. ^ Có nguồn viết 58x12cm,[4] có thể đây là sự nhầm lẫn.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nguyễn Thành (1992), tr. 13.
  2. ^ Huỳnh Văn Tòng (2016), tr. 198–202.
  3. ^ a b Nguyễn Thành (1992), tr. 11–15.
  4. ^ Đỗ Quang Hưng (2018), tr. 96.
  5. ^ Trần Đình Ba (2022), tr. 235.
  6. ^ Nguyễn Thành (1992), tr. 17–19.
  7. ^ “Văn học và điển cổ”. Tiếng Dân (1667). 15 tháng 4 năm 1942.
  8. ^ “Ta nên cần có sách gì?”. Tiếng Dân (30). 19 tháng 11 năm 1927.
  9. ^ Cùng ông Thông Reo và ông Phan Khôi trong Dân Báo về chuyện thơ mới”. Tiếng Dân (1602). 6 tháng 8 năm 1941.
  10. ^ Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không?”. Tiếng Dân (317). 17 tháng 9 năm 1930.
  11. ^ Nguyễn Xuân Hoa (2013), tr. 51.
  12. ^ “Quốc hồn quốc túy ta ở đâu?”. Tiếng Dân (1739). 13 tháng 1 năm 1943.
  13. ^ Nguyễn Thế Anh (2002), tr. 30–32.
  14. ^ Nguyễn Xuân Hoa (2013), tr. 48–51.
  15. ^ Nguyễn Thế Anh (2002), tr. 28.
  16. ^ Cái ngộ điểm của nhà chính trị cùng cái ngộ điểm của nhà đọc báo”. Tiếng Dân (111). 8 tháng 9 năm 1928.
  17. ^ Nguyễn Thành (1992), tr. 68.
  18. ^ Một mối cảm tưởng đối với vụ án Việt Nam Quốc dân Đảng”. Tiếng Dân (198). 20 tháng 7 năm 1929.
  19. ^ Nguyễn Thành (1992), tr. 89.
  20. ^ “Cảm tưởng đối với những việc biến động ở Bắc Kỳ vừa rồi”. Tiếng Dân (264). 15 tháng 3 năm 1930.
  21. ^ a b Nguyễn Thành (1993), tr. 11.
  22. ^ “Một cái truyền đơn quá dốt”. Tiếng Dân (161). 13 tháng 3 năm 1929.
  23. ^ “Cái họa cộng sản bằng giấy”. Tiếng Dân (232). 16 tháng 11 năm 1929.
  24. ^ Nguyễn Thành (1992), tr. 91–94.
  25. ^ “Chủ động cộng sản ở xứ ta là ai?”. Tiếng Dân (236). 30 tháng 11 năm 1929.
  • Nguyễn Thành (1992). Lịch sử báo Tiếng Dân. Nhà xuất bản Đà Nẵng. OCLC 34624026.
  • Nguyễn Thành (1993). “Tìm hiểu tư tưởng chính trị của Huỳnh Thúc Kháng”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 1 (266): 7–15.
  • Nguyễn Thế Anh (2002). “Một trường hợp trường tồn của tinh thần Nho giáo ở Việt Nam vào thế kỷ 20: Huỳnh Thúc Kháng và tờ báo Tiếng Dân”. Nghiên cứu Huế. Tập 4. Trung tâm Nghiên cứu Huế. tr. 22–32. OCLC 43207147.
  • Nguyễn Xuân Hoa (2013). “Báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng: Tờ báo khổ lớn bằng tiếng Việt đầu tiên ở Huế”. Lịch sử báo chí Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr. 39–52. OCLC 1059551212.
  • Huỳnh Văn Tòng (2016). Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. ISBN 978-604-58-5099-2.
  • Đỗ Quang Hưng (2018) [1992]. Lịch sử báo chí Việt Nam (1865 -1945). Nhà xuất bản Khoa học xã hội. ISBN 978-604-956-278-5.
  • Trần Đình Ba (2022). Đằng sau mặt báo – Hồi ký chân dung báo chí Việt buổi ban đầu đến 1945. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. ISBN 978-604-377-062-9.
{{bottomLinkPreText}} {{bottomLinkText}}
Tiếng Dân (báo)
Listen to this article

This browser is not supported by Wikiwand :(
Wikiwand requires a browser with modern capabilities in order to provide you with the best reading experience.
Please download and use one of the following browsers:

This article was just edited, click to reload
This article has been deleted on Wikipedia (Why?)

Back to homepage

Please click Add in the dialog above
Please click Allow in the top-left corner,
then click Install Now in the dialog
Please click Open in the download dialog,
then click Install
Please click the "Downloads" icon in the Safari toolbar, open the first download in the list,
then click Install
{{::$root.activation.text}}

Install Wikiwand

Install on Chrome Install on Firefox
Don't forget to rate us

Tell your friends about Wikiwand!

Gmail Facebook Twitter Link

Enjoying Wikiwand?

Tell your friends and spread the love:
Share on Gmail Share on Facebook Share on Twitter Share on Buffer

Our magic isn't perfect

You can help our automatic cover photo selection by reporting an unsuitable photo.

This photo is visually disturbing This photo is not a good choice

Thank you for helping!


Your input will affect cover photo selection, along with input from other users.

X

Get ready for Wikiwand 2.0 🎉! the new version arrives on September 1st! Don't want to wait?